Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Đôi gò bồng đảo

Trong một bài thơ tả người thiếu nữ ngủ lúc trưa hè, được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương, có câu “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”, và ta hiểu rằng hai đảo bồng lai ấy là đôi vú, vẫn còn ngậm sương vì chưa đến thời tiết sữa nuôi con.



Từ xưa đến nay, ngoài tiếng nhũ hoa, có lẽ đó là những tiếng đẹp nhất nói về phần nổi trên ngực người phụ nữ. Bởi không chỉ là vẻ đẹp vô cùng hấp dẫn, nhũ hoa còn là cơ quan tuyệt vời nuôi dưỡng cuộc sống cho nhân loại này. Vì vậy, ở một số nước, tiếng trẻ gọi mẹ bắt nguồn từ tiếng La tinh mamma, nghĩa là bầu vú.
Trong một bài báo nói về những bí ẩn của bộ phận này, J.D.Rateliff cho rằng chức năng của bộ nhũ hoa vô cùng phức tạp và người ta vẫn chưa hiểu hết được về nó. Ngay cả những trẻ sơ sinh, dầu nữ hay nam, nếu được kích thích bằng những hoóc môn của mẹ thì nhũ hoa vẫn có thể tiết ra vài giọt sữa - và tiếng Pháp gọi là sữa phù thủy. Sau đó nhũ hoa ngủ yên đến tuổi dậy thì. Và đến lúc này sẽ có một số biến đổi quan trọng để người thiếu nữ đảm đương chức năng làm mẹ.
Không thể kể hết ra đây những biến đổi quan trọng ấy nên chỉ ghi lại một vài nét chính. Trước hết, những mầm chồi của tuyến sữa sẽ phát triển dần làm cho bầu vú lú cao như hình nón, rồi lớp mỡ bọc được hình thành ngay ngoài các tuyến sữa.
Dần dà núm vú nở thêm và thon dài ra cho vừa miệng ngậm của trẻ sơ sinh, xung quanh có điểm một vành chấm đen. Vành chấm đen này chứa nhiều hạch mỡ, chức năng có lẽ để giữ lớp da đầu vú khỏi bị tưa nứt khi trẻ ngậm mút.
Điều đặc biệt là sau khi sinh, trong khoảng từ 2 đến 4 ngày bầu vú người mẹ rỉ ra chất nước màu vàng sánh đặc - không có giá trị dinh dưỡng - gọi là sữa sống. Chất này giúp ống tiêu hóa của trẻ sơ sinh xổ nhẹ, xả được các chất nhầy cùng những cặn bã ở bên trong. Người ta phân tích thấy chất sữa này còn chứa những thứ kháng thể bảo vệ cho trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm bệnh trong những ngày mới chào đời.
Sau khi sinh ra, đứa trẻ bị giảm cân nhanh cần được tiếp tế thức ăn nên não - thùy của người mẹ tiết ra chất prolactine - còn gọi là hoóc môn của tình mẫu tử - để khởi động cơ chế sản xuất sữa. Chất này còn có công dụng kiềm chế bản năng tình dục và làm ngắt quãng kinh kỳ để hạn chế sự thai nghén của người phụ nữ khi con còn bú. Nói chung, sự bào chế sữa nơi các loài vật cũng là một điều kỳ diệu.
Con bò sữa cứ ăn cỏ nhưng món sữa bò chứa đựng đủ thứ bổ dưỡng nên một con bê chỉ trong hai tháng đã tăng gấp đôi thể trọng. Nếu so sánh với sữa người thì sữa bò chứa đựng gấp đôi chất đạm, gấp bốn lượng vôi, gấp năm lượng phốt phát. Dẫu nguyên liệu của sữa chỉ lấy từ máu, nhưng việc chuyển đổi từ máu ra sữa là một quá trình siêu đẳng gần như là phép luyện kim.
Người ta ước tính phải có 400 phần máu đi qua nhũ hoa mới chế chiết ra được 1 phần sữa. Mà thành phần của máu lại hoàn toàn khác với thành phần của sữa. Như chất đường glucose trong máu thì chẳng giống mấy với đường lactose trong sữa. Các acid amin của máu cũng khác xa với những hợp chất đạm trong sữa, và các acid béo trong máu với chất mỡ trong sữa cũng vậy.
Nhũ hoa còn có khả năng thích ứng đáng kể trong việc tiết sữa theo nhu cầu của đứa bé. Trong tuần lễ đầu, vài trăm gam sữa mỗi ngày cũng đủ cho một đứa bé nặng 3,5kg. Khi bé lớn dần, nhũ hoa vẫn cung cấp đủ sữa, có thể đến hơn 1 lít mỗi ngày.
Người ta cũng thấy, ở tất cả loài có vú, việc cho con bú tạo thêm một niềm thích thú, có thể do sự kích thích bầu vú khi cho con ngậm mút sữa và cũng do sự co thắt từng hồi ở nơi tử cung được điều khiển bởi các hoóc môn tiết ra trong lúc cho con bú. Khi đứa bé dứt sữa thì nhũ hoa như được bí mật thông báo một cách kỳ diệu và sẽ dần teo nhỏ lại.
Với những bộ ngực phơi trần, các dân tộc bán khai được coi là có quan niệm đúng đắn về bộ phận quý báu này hơn các dân tộc văn minh. Đó là chưa nói, ngày xưa, các cụ nhà ta luôn bắt chị em nịt vú thật chặt, ép vú thật sát khiến nhiều người bị nghẹt thở.
Có lẽ các cụ cho rằng, vú nổi là cách gợi tình, và cũng có lẽ, ngày xưa, có những anh chàng vô học chuyên đi gạ gẫm chị em chỉ bằng mỗi việc… bóp vú, ngay ở ngoài đường.
Vú là bộ phận hết sức tinh vi và có chức năng phức tạp nên vú thường là đầu mối của nhiều phiền phức cho người phụ nữ. Đáng kể nhất là bệnh ung thư thường xảy ra với nhũ hoa hơn là các bộ phận khác.
Ở một đất nước được xem là khá văn minh như Đức mà năm 1990 báo chí cho biết có đến 32.000 phụ nữ mắc phải bệnh này và 15.000 đã chết. Kết quả kiểm tra cho thấy số người tử vong do phát hiện bệnh quá muộn để các tế bào ung thư lan sang các bộ phận bên cạnh. Nếu được phát hiện kịp thời thì 90% trường hợp mắc bệnh sẽ được chữa khỏi và ít có trường hợp nào phải cắt bỏ hoàn toàn như trước đây.
Không phải đợi đến tuổi ngoài 40 mới lo kiểm tra bồng đảo, mà các chị em cỡ 20 tuổi trở lên phải biết tự kiểm tra mình. Tiến sĩ Hilt, chuyên gia về ung thư, đã hướng dẫn cách thực hành như sau: “Đặt 3 ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón trỏ nằm ngang trên mặt da vú rồi xoa và ấn nhẹ khắp bầu vú, xem có hiện tượng cục thịt nhỏ nào, hoặc có chỗ nào bị cứng không. Nếu thấy nghi ngờ, dầu chỉ là hoài nghi thôi cũng phải đến ngay bác sĩ để kiểm tra lại”.
Ai cũng hiểu rằng nhũ hoa có hai chức năng: thẩm mỹ và nuôi con. Về mặt thẩm mỹ, cần nhớ bầu vú được bao bọc bởi những lớp mô có tính đàn hồi, mềm mại, và lớp mô này cần được bảo vệ thì bộ ngực mới không bị biến dạng. Các nhà thẩm mỹ học khuyên mặc áo nịt là cách giữ cho ngực khỏi suy thoái.
Áo nịt giúp nâng vú không cho bị xệ, nhưng không được dùng loại bao vú chật làm cho các mô mất sự đàn hồi, bộ ngực già đi. Có thể dùng loại móc cài ở phía trước ngực hay ở sau lưng, nhưng đoạn dây chằng không nên quá nhỏ và sự chun dãn phải tốt để không ảnh hưởng đến da, đến máu. Và các áo nịt có khung kim loại đều bị chống đối, vì dễ gây bệnh, dẫn đến ung thư. Điều quan trọng là trước khi đi ngủ nên bỏ áo nịt, và nên tập vài động tác thể dục nhẹ nhàng để giữ vú được cân đối, khỏe, đẹp.
Về mặt thẩm mỹ, người ta cũng chia ra nhiều loại vú khác nhau. Trong dân gian thường nói vú mướp, vú ghè, hoặc theo một tục ngôn định vẻ đẹp cho người phụ nữ là “mông tròn như trái quýt, vú nguýt như sừng bò”.
Còn các quyển sách ngày xưa thuộc loại tướng số như Cổ tướng thư chia vú ra làm nhiều loại. Riêng về đầu vú thì có 6 loại như sau: nhũ đầu đại nhi hắc (đầu vú lớn và đen); nhũ đầu tiểu bạch (đầu vú nhỏ và trắng); nhũ đầu hồng nộn (đầu vú có màu hồng nhạt); nhũ đầu bình nhuyễn (đầu vú tẹt và nhão); nhũ đầu như chu sa (đầu vú đỏ như son); nhũ đầu triều hạ (đầu vú chúc xuống).
Trong 6 loại này thì sách xưa cho rằng loại 1 cùng với loại 5 - nghĩa là đầu đỏ, đầu đen - là hai loại tốt nhất. Sách còn chia  bầu vú làm 4 hình thể khác nhau: hình quả chuông (chung hình)chỉ những loại vú cực lớn, sung mãn; hình chén úp (uyển hình)chỉ loại vú tròn, vừa vặn; hình cái mầm măng tre (duẩn hình), còn gọi là hình trái lê, chỉ những bộ ngực đẹp rất nghệ thuật; hình tròn, dài (thủy hình) chỉ những bộ ngực quả mướp, ngực thòng.
Những sự phân loại cụ thể như trên, để chia tốt xấu, có lẽ chỉ là những trò ma mãnh của các ông thầy tướng số ngày xưa bày đặt để mà tìm cách chiêm ngưỡng và sờ nắn nhũ hoa các cô, các bà. Chính vì bầu vú là phần quan trọng ở trên cơ thể của người phụ nữ nên nhiều chị em quá lo chăm sóc đến độ cho bơm, cho nhét vào đó nhiều thứ độc hại để nó nổi cộm mà quên hẳn rằng, đối với đàn ông bộ ngực đẹp nhất là bộ ngực của người mình yêu, dầu nó thế nào. Câu nói sau đây của một nhà thơ cũng đáng cho ta suy ngẫm: “Khi bộ ngực lép thì hai quả tim dễ gần nhau hơn”.
Ở Việt Nam ta, vú là hình tượng quen thuộc trong văn hóa dân gian. Trước hết phải kể vú em là lớp lao động chuyên khai thác vú làm phương tiện sống, đó là những người đàn bà nghèo khổ phải đem vú sữa của mình nuôi con những gia đình giàu, hoặc vì mẹ chết, hoặc không có sữa, hoặc quá bận rộn hay quá biếng lười.
Cũng có những người tuy gọi vú em nhưng không có sữa và chỉ nuôi con thiên hạ bằng cách đút cháo, nhai cơm. Bên cạnh lớp vú em nữ còn một lớp nữa, trong giới đàn ông, gọi là vú đực, chỉ những gia sư nuôi dạy con cái của người thiên hạ.
Thi hào Nguyễn Khuyến, thuở còn hàn vi, từng làm gia sư cho một số nhà quyền thế và trước thái độ nhiều người coi rẻ nghề này ông đã làm bài Vú đực, theo lối ca trù, để nâng vị thế người vú lên. Chỉ xin trích dẫn sau đây mấy câu cuối cùng:
… Khi nuôi nên con phụng, cháu rồng
Công vú lại hơn công sinh đẻ
Thuê mướn được vú này há dễ
Chẳng như ai sồ  xệ vú dưa gang
Vú này nuôi khắp tài lang!
Ngoài ra không kể những cái vú đá (thạch nhũ) trong các hang động, chúng ta còn một loại sản phẩm ở biển, thuộc loại nghêu sò, tên là vú nàng rất được các tay ăn nhậu ưa thích. Và ở miệt vườn Nam Bộ, khá nhiều những cây vú sữa tươi xanh đầy quả no tròn.
Có lần một khách ngoại quốc ghé đến thăm nhà, tôi đem mấy trái vú sữa ra mời và phải dịch là loài vú có sữa để người ta hiểu. Ông khách bèn nói: “Việt Nam có những trái cây tên rất đặc biệt”.

Bầu vú quan trọng là vậy, đáng yêu là vậy nhưng những văn thơ nói về đôi vú không nhiều. May mắn cách đây trên 40 năm tôi đã gặp được một bài thơ hay của thi sĩ Truy Phong, người con của đất Vĩnh Long xinh đẹp và giàu tài năng, từng là tác giả thi phẩm nổi tiếng một thời - Một thế kỷ, mấy vần thơ - làm để tống tiễn bọn thực dân Pháp trở về cố quốc.
Bài thơ Vú mẹ của Truy Phong được viết trong thời chống Mỹ, vào khoảng giữa năm 1967 đăng trên tuần báo Tin Văn, tờ báo chính do Khu ủy chỉ đạo giao cho cơ sở nội thành Sài Gòn thực hiện ngay trong vùng địch kiểm soát.
Bài thơ được đăng trang trọng, với lời tác giả ghi chú bên trên: “Kính dâng ai còn mẹ để thương, có nước để thờ”, dài 13 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Chỉ xin trích dẫn sau đây 3 đoạn, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối.
Thuở bé tay ghiền măn vú mẹ
Miệng thèm đòi núm ửng màu son
Mỗi lần vú hiện trong tà áo
Ngậm vú no rồi ôm vú hôn.

...Sữa mẹ cho con đôi mắt sáng
Bàn tay rắn chắc, quả tim hùng
Cho con thơ để con rung cảm
Thương nước trong nguồn đổ mấy sông!

...Một trăm năm nữa, ngàn năm nữa
Miệng vẫn còn in vú mẹ hiền
Dù sữa bột thơm hay sữa ngọt
Cũng không bằng sữa mẹ thiêng liêng!
Và nói đến vú chúng ta không thể quên người Việt Nam có thể là nước duy nhất trên thế giới này có một bộ vú cực kỳ dài, lớn mà không nơi nào sánh được, đó là bộ ngực của bà Triệu Trinh Nương, tức là Bà Triệu, người đã cùng với anh ruột là Triệu Quốc Đạt cầm binh chống lại giặc Ngô xâm lược từ giữa thế kỷ thứ 3, sau Công nguyên.
Truyền thuyết nói rằng bà có vú dài 3 thước - hẳn là thước ta - và khi xông trận thường phải vắt vú lên vai. Dầu rất xinh đẹp bà vẫn không chịu lấy chồng vì muốn dành hết tâm lực đuổi bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Và với “đôi gò bồng đảo sương còn ngậm” mà đã trở thành… đại mướp như thế cũng là điều lạ.
Người ta có thể nghi ngờ điều đó, song qua nhiều đời sự kiện đã được sử sách chép lại, hẳn là có thực. Quả chẳng một ai dám đến gần Bà để mà đo vú nên cái con số ba thước chỉ là hình tượng về một chiều dài không mấy bình thường. Còn nhớ, vào thời Pháp thuộc, ông Hoàng Cao Khải có làm bài thơ ca ngợi Bà Triệu, bài thơ tầm thường chỉ có cặp trạng là nghe tạm được:
Lừng lẫy non sông, ba thước vú
Xông pha tên trận một đầu voi.



Người đồng thời là cụ Phan Điện - một nho sĩ nổi tiếng ở Hà Tĩnh - đi đâu cũng chỉ trích sự kém cỏi của bài thơ này nên người con của ông Hoàng Cao Khải là Hoàng Mạnh Trí - bấy giờ là tri huyện Đức Thọ, mời cụ Phan Điện đến công đường và bảo: “Sao ông đi đâu cũng chê bài thơ của cha tôi là dở. Ông hãy làm một bài khác xem sao. Nếu không hơn của cha tôi thì tôi sẽ giữ ông lại nơi này”.
Ông Phan Điện không cần suy nghĩ (hoặc ông đã từng suy nghĩ lâu rồi) cầm bút viết liền tám câu Đường luật sau đây:
Phải đánh vì chưng giặc đến nhà
Phất cờ, vắt vú, cưỡi voi ra
Sợ non sông Lạc vào tay chú
Cho tướng quân Ngô biết mặt bà
Bắc Hán ngàn năm chưa có một
Tây Hồ hai chị nữa là ba
Còn trời, còn đất còn non nước
Còn lắm anh hùng ở xứ ta.
Bài thơ quá hay, chứa đầy hào khí xuyên suốt từ trên xuống dưới theo như các cụ thường bảo nhất khí quán hạ khiến ông tri huyện lặng thinh để cho cụ Phan đi thẳng về nhà.
Như thế, nói theo ngôn ngữ ngày nay, nhắc đến rau cải người ta quen dùng cái tiếng siêu sạch, bàn về ca sĩ người ta quen gọi bằng tiếng siêu sao, chúng ta có thể tự hào rằng dân tộc mình từng có siêu vú.
Theo: Vũ Hạnh

Ca Dao Trào Phúng

Ca Dao Trào Phúng

Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và ca dao trào phúng là ca dao nói về những nét trào phúng, hài hước, bông đùa, hóm hinh, dí dỏm trong kho tàng văn chương bình dân của tiếng Việt ta.
Ngày xưa, cha mẹ chồng rất hà khắc với nàng dâu, nhất là mẹ chồng cho nên các cô gái ngày xưa rất “ớn” về làm dâu nhà chồng:
Gió đưa bụi chuối tùm lum,
Mẹ anh như hùm ai dám làm dâu.


Hay:

Bà con có biết hay không?
Bố chồng là lông chim phượng.
Mẹ chồng là tượng mới tô,
Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi.
Còn các nàng dâu ngày nay đã có các “Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng sau lưng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì thế các nàng thường ngâm nga câu:
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
Đó là mẹ chồng dữ, còn cha chồng mà dữ thì:
Ai ơi chồng dữ thì rầu,
Bố chồng mà dữ mổ trâu ăn mừng.
Trong tình trường, có nhiều cô gái ỷ mình đẹp, có nhan sắc hay con nhà giảu nên làm cao:
Anh về chẻ lạt bó tro,
Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.
Hoặc:
Duyên em đáng giá ngàn vàng,
Anh về bán cả họ hàng cưới em.
Nhưng chàng trai đáp:
Anh về bán cái hột xoàn,
Bán thêm cây vàng dư sức cưới em.
Hay:
Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn lính canh.
Chàng trai đáp lại:
Thân anh như cái chày vồ,
Bỏ lăn, bỏ lốc chờ ngày dộng chuông.
Đối với những cặp vợ chồng mà tuổi tác hay kích thước chênh lệch thì ca dao trào phúng có câu:
Có phúc lấy phải vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh.
Vô phúc lấy phải trẻ ranh (bồ nhí),
Nó ăn, nó phá tan tành nó đi.
Hay:
Ai đời chồng thấp, vợ cao,
Rờ vú không tới lấy sào mà quơ.
Còn về những phụ nữ nhan sắc tàn phai, ca dao ta có câu châm biếm:
Mồ cha con bướm khôn ngoan,
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.
Hay:
Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Hoặc:
Còn duyên kẻ đón người đưa.
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
Và:
Còn duyên kẻ đợi người chờ,
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.
Trong tình trường, những kẻ nhiều kiên nhẫn, “lì” thì đạt được thành công:
Chuông già đồng điếu chuông kêu,
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.
Nhưng đối với những phụ nữ nhẹ dạ thường nghe những lời nỉ non ngon ngọt ca dao ta khuyên:
Chớ nghe quân tử nỉ non,
Để rồi có lúc ẵm con một mình.
Hay:
Gá duyên với bạn hôm rằm,
Bữa nay bạn bỏ tôi nằm phòng không.
Còn những phụ nữ có chồng mê vợ bé, bỏ bê gia đình thì than:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.
Bởi thế cho nên ca dao khuyên những người đàn ông nhiều vợ rằng:
Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai nhiều vợ phải thương cho đồng.
Đàn ông là những người tham lam cho nên ca dao có câu:
Sông bao nhiêu nước cho vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
Đàn ông tham lam, năm, bảy trái tim:
Đàn ông năm, bảy trái tim,
Trái ở cùng vợ, trái toan cùng người.
Hay:
Hai cô đứng lại cho đồng,
Để anh đứng giữa làm chồng hai cô.
Hoặc:
Lựu, lê anh cũng muốn trồng,
Hai em anh cũng thương đồng cả hai.
Và:
Cây lê, cây lựu, cây đào,
Ba cây anh cũng muốn rào cả ba.
Ca dao ta cũng trách những người ăn ở hai lòng:
Trách ai ăn ở hai lòng,
Đang chơi với phượng, thấy rồng bay theo.
Ở đời có nhiều người chủ quan, tự phụ:
Gió thu thổi ngọn phù dung,
Dạ nàng dù sắt anh nung cũng mềm.
Trong tình trường, có người tán gái hơi ngộ nghĩnh:
Gái chưa chồng hay đi chợ,
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
Khi mới quen nhau:
Nàng về ta chẳng cho về,
Níu áo nàng lại ta đề bài thơ

Hay:
Nàng về ta chẳng cho về,
Nắm áo nàng lại ta đề số phone.
Khi yêu nhau, ta nương tựa nhau, ta dìu dắt nhau:
Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.
Khi yêu nhau, ta thương nhớ nhau, muốn gần gũi bên nhau nên nàng ước:
Ước gì em hóa ra dơi,
Bay đi bay lại đến nơi anh nằm.
Hay:
Thương anh không tính bạc tiền,
Hôn nhau một cái chết liền cũng vui.
Hoặc:
Anh về em cũng về theo,
Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà.
Tục ngữ có câu “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một” cho nên:
Tuổi nàng đã chẵn hai mươi,
Tuổi anh hăm mốt tốt tươi quá chừng.
“Cua” em để dành:
Cam sành lột vỏ còn chua,
Thấy em còn bé, anh “cua” để dành.
Hay:
Cam đường bóc vỏ còn the,
Thấy em còn bé anh “ve” để dành.
Và:
Cầm chài mà vãi bụi tre,
Con gái mười bảy đi “ve” ông già.
Trong tình trường, khi yêu nhau cưới liền để lâu thì mất cho nên ca dao khuyên:
Ai về nhắn với ông câu,
Cá ăn thời giật, để lâu mất mồi.
Đối với những anh chàng dại gái, ca dao trào phúng châm biếm:
Tiếc công khổ cực nuôi cu,
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu đi,
Hay:
Công anh xúc tép nuôi lươn,
Nuôi cho nó lớn, nó trườn nó đi.
Hoặc:
Công anh chăn nghé đã lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
Cá ăn không giật để lâu mất mồi rồi than trời, trách đất:
Trách trời sao vội mưa giông,
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
Còn đối với những anh chàng thất tình, ca dao trào phúng bông đùa:
Rồi đây có kẻ thất tình,
Dựa mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu.

Hay:
Chiều chiều có kẻ thất tình,
Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.
Hoặc:
Thất tình nước mắt như mưa,
Thấu trời, thấu đất nhưng chưa thấu lòng.
Và:
Châu sa nước mắt ròng ròng,
Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chăng?
Trai tơ đòi vợ:
Chuối non chuối ép chát ngầm,
Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm.
Khóc rồi mẹ lại đánh thêm,
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày.
Còn những chàng trai tơ mà lấy gái nạ dòng, ca dao trào phúng chế giễu:
Trai tơ thì lấy gái tơ,
Đi đâu lật đật mà quơ nạ dòng.
Không đưa hối lộ đếch “ừ”:
Chắp tay lạy cụ tỉnh yêu,
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.
Cụ nhìn trợn mắt, cau mày,
Không đưa hối lộ thì đây đếch “ừ”.
Đi đâu mà chẳng lấy chồng:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng đất hỡi, trời ơi,
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
Hay:
Đi chùa lạy Phật cầu chồng,
Hộ Pháp liền bảo đàn ông hết rồi.
Vì không chồng cho nên buồn rầu:
Buồn rầu, buồn rĩ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.
Hết buồn rầu lại đến buồn tình:
Buồn tinh nằm ngửa chình inh,
Không ai nằm úp lên minh cho vui.
Và:
Buồn tình hai đứa buồn tình,
Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang.
Con gái mà chơi với con trai:
Con gái chơi với con trai,
Rồi sau cái vú bằng hai trái dừa.
Má ơi đừng gả con gần:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu, vượn hú biết đâu mà lần.
Má ơi đừng gả con gần,
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.
Chọn bạn mà chơi:
Chọn xoài đừng chọn xoài chua,
Chọn bạn đừng để bạn “cua” bồ mình.
Sài Gòn, Nam Vang đi dễ, khó về:
Sài Gòn đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Hoặc:
Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Đường cong cong, quèo quẹo:
Đường Sài Gòn cong cong, quèo quẹo,
Gái Sài Gòn không ghẹo mà theo.
Hay:
Đường lục tỉnh cong cong, quèo quẹo,
Gái lục tỉnh không ghẹo mà theo.
Nhiều gái ế chồng:
Bến Tre nhiều gái ế chồng,
Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi!
Ca dao trào phúng của ta cũng không quên bông đùa, chiâm biếm những phụ nữ có tánh lẳng lơ, hoa nguyệt:
Anh đánh thì em chịu đòn,
Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
Hay:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.
Hoặc:
Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.
Chờ ông láng giềng:
Đêm qua để cửa chờ chồng,
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.
Và:
Cái giường mà biết nói năng,
Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.

Giữa chồng và trai:
Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Hoặc:
Đêm nằm ôm gối thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
Đàn bà Bình Định nổi tiếng giỏi võ nghệ, giỏi côn quyền nên ca dao có câu:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền.
Nhưng:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà Bình Định ra oai đánh chồng.
Ai mua cây si:
Ai mua tôi bán cây si,
Si tôi tốt giống, cành chi chít cành.
Hễ mà gặp được đất lành,
Là si phát triển trở thành “siđa”.
Ca dao trào phúng cũng còn châm biếm những anh chàng sở khanh:
Yêu em mấy núi cũng trèo,
Khi em có chửa mấy đèo cũng dông
Nếu mà anh phải lấy nàng:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh phải lấy nàng,
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Nhưng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy thằng cu ra đời.
Thu đi để lại lá vàng:
Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu tiềp nối mùa thu,
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời.
Qua đình ngả nón:
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Nhưng:
Qua đình ngả nón trông đình
Nhìn anh ăn mặc thùng thình em chê.
Đường về đêm tối:
Đường về đêm tối canh thâu,
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.
Giỡn chơi chút xíu:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
Trách người quân tử:
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Hay:
Trách người quân tử gian manh,
Chơi hoa rồi lại hái cành kế bên.
Chồng đòi “tòm tem”:
Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn la, con khóc, chồng đòi “tòm tem”.
Bây giờ lửa đã cháy rồi,
Lợn no, con nín “tòm tem” thì tòm.
Chính chuyên:
Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
Hay:
Chính chuyên lấy được chín chồng,
Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.
Ba chồng để ngọn sông Đào,
Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng.
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”:
Thuyền theo lái, gái theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
Cưới nàng được chăng:
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm, vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.
Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
Làm trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?
Trời ở bất công:
Trời sao trời ở bất công,
Người ba bốn vợ, người không vợ nào!
Ba bà tìm nhà bà tư:
Bà cả, bà bé, bà ba,
Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư.


“Một vợ nằm giường Lèo,

hai vợ nằm chèo queo,

ba vợ ra chuồng heo mà nằm.
Thế còn 5 vợ thì sao?

 Xin thưa:

Đêm khuya năm vợ ngồi hầu,
Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi.
Vợ hai trải chiếu chàng ngồi,
Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong.
Vợ tư sửa soạn giăng mùng,
Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa.
Chè thưng, cháo đậu bưng ra,
Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân.
Đám cưới linh đình:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Hà Nội, Thái Bình sửa đàng rước dâu.
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau,
Nghệ An thì phải thui trâu, mổ bò.
Phú Thọ quạt nước hỏa lò,
Hải Dương rọc lá làm giò, gói nem.
Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền,
Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi.
Kiên Giang gánh đá nung vôi,
Thừa Thiên, Đà Nẳng thổi xôi, nấu chè.
Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe,
Sài Gòn, Gia Định chẻ tre bắc cầu.
Anh mời khắp nước chư hầu,
Nước Tây, nước Tàu anh gởi thư sang.
Nam Tào, Bắc Đẩu dọn đàng,
Thiên Lôi, La Sát hai hàng, hai bên.
Lê ThươngRichmond - Virginia