Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Đôi gò bồng đảo

Trong một bài thơ tả người thiếu nữ ngủ lúc trưa hè, được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương, có câu “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”, và ta hiểu rằng hai đảo bồng lai ấy là đôi vú, vẫn còn ngậm sương vì chưa đến thời tiết sữa nuôi con.



Từ xưa đến nay, ngoài tiếng nhũ hoa, có lẽ đó là những tiếng đẹp nhất nói về phần nổi trên ngực người phụ nữ. Bởi không chỉ là vẻ đẹp vô cùng hấp dẫn, nhũ hoa còn là cơ quan tuyệt vời nuôi dưỡng cuộc sống cho nhân loại này. Vì vậy, ở một số nước, tiếng trẻ gọi mẹ bắt nguồn từ tiếng La tinh mamma, nghĩa là bầu vú.
Trong một bài báo nói về những bí ẩn của bộ phận này, J.D.Rateliff cho rằng chức năng của bộ nhũ hoa vô cùng phức tạp và người ta vẫn chưa hiểu hết được về nó. Ngay cả những trẻ sơ sinh, dầu nữ hay nam, nếu được kích thích bằng những hoóc môn của mẹ thì nhũ hoa vẫn có thể tiết ra vài giọt sữa - và tiếng Pháp gọi là sữa phù thủy. Sau đó nhũ hoa ngủ yên đến tuổi dậy thì. Và đến lúc này sẽ có một số biến đổi quan trọng để người thiếu nữ đảm đương chức năng làm mẹ.
Không thể kể hết ra đây những biến đổi quan trọng ấy nên chỉ ghi lại một vài nét chính. Trước hết, những mầm chồi của tuyến sữa sẽ phát triển dần làm cho bầu vú lú cao như hình nón, rồi lớp mỡ bọc được hình thành ngay ngoài các tuyến sữa.
Dần dà núm vú nở thêm và thon dài ra cho vừa miệng ngậm của trẻ sơ sinh, xung quanh có điểm một vành chấm đen. Vành chấm đen này chứa nhiều hạch mỡ, chức năng có lẽ để giữ lớp da đầu vú khỏi bị tưa nứt khi trẻ ngậm mút.
Điều đặc biệt là sau khi sinh, trong khoảng từ 2 đến 4 ngày bầu vú người mẹ rỉ ra chất nước màu vàng sánh đặc - không có giá trị dinh dưỡng - gọi là sữa sống. Chất này giúp ống tiêu hóa của trẻ sơ sinh xổ nhẹ, xả được các chất nhầy cùng những cặn bã ở bên trong. Người ta phân tích thấy chất sữa này còn chứa những thứ kháng thể bảo vệ cho trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm bệnh trong những ngày mới chào đời.
Sau khi sinh ra, đứa trẻ bị giảm cân nhanh cần được tiếp tế thức ăn nên não - thùy của người mẹ tiết ra chất prolactine - còn gọi là hoóc môn của tình mẫu tử - để khởi động cơ chế sản xuất sữa. Chất này còn có công dụng kiềm chế bản năng tình dục và làm ngắt quãng kinh kỳ để hạn chế sự thai nghén của người phụ nữ khi con còn bú. Nói chung, sự bào chế sữa nơi các loài vật cũng là một điều kỳ diệu.
Con bò sữa cứ ăn cỏ nhưng món sữa bò chứa đựng đủ thứ bổ dưỡng nên một con bê chỉ trong hai tháng đã tăng gấp đôi thể trọng. Nếu so sánh với sữa người thì sữa bò chứa đựng gấp đôi chất đạm, gấp bốn lượng vôi, gấp năm lượng phốt phát. Dẫu nguyên liệu của sữa chỉ lấy từ máu, nhưng việc chuyển đổi từ máu ra sữa là một quá trình siêu đẳng gần như là phép luyện kim.
Người ta ước tính phải có 400 phần máu đi qua nhũ hoa mới chế chiết ra được 1 phần sữa. Mà thành phần của máu lại hoàn toàn khác với thành phần của sữa. Như chất đường glucose trong máu thì chẳng giống mấy với đường lactose trong sữa. Các acid amin của máu cũng khác xa với những hợp chất đạm trong sữa, và các acid béo trong máu với chất mỡ trong sữa cũng vậy.
Nhũ hoa còn có khả năng thích ứng đáng kể trong việc tiết sữa theo nhu cầu của đứa bé. Trong tuần lễ đầu, vài trăm gam sữa mỗi ngày cũng đủ cho một đứa bé nặng 3,5kg. Khi bé lớn dần, nhũ hoa vẫn cung cấp đủ sữa, có thể đến hơn 1 lít mỗi ngày.
Người ta cũng thấy, ở tất cả loài có vú, việc cho con bú tạo thêm một niềm thích thú, có thể do sự kích thích bầu vú khi cho con ngậm mút sữa và cũng do sự co thắt từng hồi ở nơi tử cung được điều khiển bởi các hoóc môn tiết ra trong lúc cho con bú. Khi đứa bé dứt sữa thì nhũ hoa như được bí mật thông báo một cách kỳ diệu và sẽ dần teo nhỏ lại.
Với những bộ ngực phơi trần, các dân tộc bán khai được coi là có quan niệm đúng đắn về bộ phận quý báu này hơn các dân tộc văn minh. Đó là chưa nói, ngày xưa, các cụ nhà ta luôn bắt chị em nịt vú thật chặt, ép vú thật sát khiến nhiều người bị nghẹt thở.
Có lẽ các cụ cho rằng, vú nổi là cách gợi tình, và cũng có lẽ, ngày xưa, có những anh chàng vô học chuyên đi gạ gẫm chị em chỉ bằng mỗi việc… bóp vú, ngay ở ngoài đường.
Vú là bộ phận hết sức tinh vi và có chức năng phức tạp nên vú thường là đầu mối của nhiều phiền phức cho người phụ nữ. Đáng kể nhất là bệnh ung thư thường xảy ra với nhũ hoa hơn là các bộ phận khác.
Ở một đất nước được xem là khá văn minh như Đức mà năm 1990 báo chí cho biết có đến 32.000 phụ nữ mắc phải bệnh này và 15.000 đã chết. Kết quả kiểm tra cho thấy số người tử vong do phát hiện bệnh quá muộn để các tế bào ung thư lan sang các bộ phận bên cạnh. Nếu được phát hiện kịp thời thì 90% trường hợp mắc bệnh sẽ được chữa khỏi và ít có trường hợp nào phải cắt bỏ hoàn toàn như trước đây.
Không phải đợi đến tuổi ngoài 40 mới lo kiểm tra bồng đảo, mà các chị em cỡ 20 tuổi trở lên phải biết tự kiểm tra mình. Tiến sĩ Hilt, chuyên gia về ung thư, đã hướng dẫn cách thực hành như sau: “Đặt 3 ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón trỏ nằm ngang trên mặt da vú rồi xoa và ấn nhẹ khắp bầu vú, xem có hiện tượng cục thịt nhỏ nào, hoặc có chỗ nào bị cứng không. Nếu thấy nghi ngờ, dầu chỉ là hoài nghi thôi cũng phải đến ngay bác sĩ để kiểm tra lại”.
Ai cũng hiểu rằng nhũ hoa có hai chức năng: thẩm mỹ và nuôi con. Về mặt thẩm mỹ, cần nhớ bầu vú được bao bọc bởi những lớp mô có tính đàn hồi, mềm mại, và lớp mô này cần được bảo vệ thì bộ ngực mới không bị biến dạng. Các nhà thẩm mỹ học khuyên mặc áo nịt là cách giữ cho ngực khỏi suy thoái.
Áo nịt giúp nâng vú không cho bị xệ, nhưng không được dùng loại bao vú chật làm cho các mô mất sự đàn hồi, bộ ngực già đi. Có thể dùng loại móc cài ở phía trước ngực hay ở sau lưng, nhưng đoạn dây chằng không nên quá nhỏ và sự chun dãn phải tốt để không ảnh hưởng đến da, đến máu. Và các áo nịt có khung kim loại đều bị chống đối, vì dễ gây bệnh, dẫn đến ung thư. Điều quan trọng là trước khi đi ngủ nên bỏ áo nịt, và nên tập vài động tác thể dục nhẹ nhàng để giữ vú được cân đối, khỏe, đẹp.
Về mặt thẩm mỹ, người ta cũng chia ra nhiều loại vú khác nhau. Trong dân gian thường nói vú mướp, vú ghè, hoặc theo một tục ngôn định vẻ đẹp cho người phụ nữ là “mông tròn như trái quýt, vú nguýt như sừng bò”.
Còn các quyển sách ngày xưa thuộc loại tướng số như Cổ tướng thư chia vú ra làm nhiều loại. Riêng về đầu vú thì có 6 loại như sau: nhũ đầu đại nhi hắc (đầu vú lớn và đen); nhũ đầu tiểu bạch (đầu vú nhỏ và trắng); nhũ đầu hồng nộn (đầu vú có màu hồng nhạt); nhũ đầu bình nhuyễn (đầu vú tẹt và nhão); nhũ đầu như chu sa (đầu vú đỏ như son); nhũ đầu triều hạ (đầu vú chúc xuống).
Trong 6 loại này thì sách xưa cho rằng loại 1 cùng với loại 5 - nghĩa là đầu đỏ, đầu đen - là hai loại tốt nhất. Sách còn chia  bầu vú làm 4 hình thể khác nhau: hình quả chuông (chung hình)chỉ những loại vú cực lớn, sung mãn; hình chén úp (uyển hình)chỉ loại vú tròn, vừa vặn; hình cái mầm măng tre (duẩn hình), còn gọi là hình trái lê, chỉ những bộ ngực đẹp rất nghệ thuật; hình tròn, dài (thủy hình) chỉ những bộ ngực quả mướp, ngực thòng.
Những sự phân loại cụ thể như trên, để chia tốt xấu, có lẽ chỉ là những trò ma mãnh của các ông thầy tướng số ngày xưa bày đặt để mà tìm cách chiêm ngưỡng và sờ nắn nhũ hoa các cô, các bà. Chính vì bầu vú là phần quan trọng ở trên cơ thể của người phụ nữ nên nhiều chị em quá lo chăm sóc đến độ cho bơm, cho nhét vào đó nhiều thứ độc hại để nó nổi cộm mà quên hẳn rằng, đối với đàn ông bộ ngực đẹp nhất là bộ ngực của người mình yêu, dầu nó thế nào. Câu nói sau đây của một nhà thơ cũng đáng cho ta suy ngẫm: “Khi bộ ngực lép thì hai quả tim dễ gần nhau hơn”.
Ở Việt Nam ta, vú là hình tượng quen thuộc trong văn hóa dân gian. Trước hết phải kể vú em là lớp lao động chuyên khai thác vú làm phương tiện sống, đó là những người đàn bà nghèo khổ phải đem vú sữa của mình nuôi con những gia đình giàu, hoặc vì mẹ chết, hoặc không có sữa, hoặc quá bận rộn hay quá biếng lười.
Cũng có những người tuy gọi vú em nhưng không có sữa và chỉ nuôi con thiên hạ bằng cách đút cháo, nhai cơm. Bên cạnh lớp vú em nữ còn một lớp nữa, trong giới đàn ông, gọi là vú đực, chỉ những gia sư nuôi dạy con cái của người thiên hạ.
Thi hào Nguyễn Khuyến, thuở còn hàn vi, từng làm gia sư cho một số nhà quyền thế và trước thái độ nhiều người coi rẻ nghề này ông đã làm bài Vú đực, theo lối ca trù, để nâng vị thế người vú lên. Chỉ xin trích dẫn sau đây mấy câu cuối cùng:
… Khi nuôi nên con phụng, cháu rồng
Công vú lại hơn công sinh đẻ
Thuê mướn được vú này há dễ
Chẳng như ai sồ  xệ vú dưa gang
Vú này nuôi khắp tài lang!
Ngoài ra không kể những cái vú đá (thạch nhũ) trong các hang động, chúng ta còn một loại sản phẩm ở biển, thuộc loại nghêu sò, tên là vú nàng rất được các tay ăn nhậu ưa thích. Và ở miệt vườn Nam Bộ, khá nhiều những cây vú sữa tươi xanh đầy quả no tròn.
Có lần một khách ngoại quốc ghé đến thăm nhà, tôi đem mấy trái vú sữa ra mời và phải dịch là loài vú có sữa để người ta hiểu. Ông khách bèn nói: “Việt Nam có những trái cây tên rất đặc biệt”.

Bầu vú quan trọng là vậy, đáng yêu là vậy nhưng những văn thơ nói về đôi vú không nhiều. May mắn cách đây trên 40 năm tôi đã gặp được một bài thơ hay của thi sĩ Truy Phong, người con của đất Vĩnh Long xinh đẹp và giàu tài năng, từng là tác giả thi phẩm nổi tiếng một thời - Một thế kỷ, mấy vần thơ - làm để tống tiễn bọn thực dân Pháp trở về cố quốc.
Bài thơ Vú mẹ của Truy Phong được viết trong thời chống Mỹ, vào khoảng giữa năm 1967 đăng trên tuần báo Tin Văn, tờ báo chính do Khu ủy chỉ đạo giao cho cơ sở nội thành Sài Gòn thực hiện ngay trong vùng địch kiểm soát.
Bài thơ được đăng trang trọng, với lời tác giả ghi chú bên trên: “Kính dâng ai còn mẹ để thương, có nước để thờ”, dài 13 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Chỉ xin trích dẫn sau đây 3 đoạn, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối.
Thuở bé tay ghiền măn vú mẹ
Miệng thèm đòi núm ửng màu son
Mỗi lần vú hiện trong tà áo
Ngậm vú no rồi ôm vú hôn.

...Sữa mẹ cho con đôi mắt sáng
Bàn tay rắn chắc, quả tim hùng
Cho con thơ để con rung cảm
Thương nước trong nguồn đổ mấy sông!

...Một trăm năm nữa, ngàn năm nữa
Miệng vẫn còn in vú mẹ hiền
Dù sữa bột thơm hay sữa ngọt
Cũng không bằng sữa mẹ thiêng liêng!
Và nói đến vú chúng ta không thể quên người Việt Nam có thể là nước duy nhất trên thế giới này có một bộ vú cực kỳ dài, lớn mà không nơi nào sánh được, đó là bộ ngực của bà Triệu Trinh Nương, tức là Bà Triệu, người đã cùng với anh ruột là Triệu Quốc Đạt cầm binh chống lại giặc Ngô xâm lược từ giữa thế kỷ thứ 3, sau Công nguyên.
Truyền thuyết nói rằng bà có vú dài 3 thước - hẳn là thước ta - và khi xông trận thường phải vắt vú lên vai. Dầu rất xinh đẹp bà vẫn không chịu lấy chồng vì muốn dành hết tâm lực đuổi bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Và với “đôi gò bồng đảo sương còn ngậm” mà đã trở thành… đại mướp như thế cũng là điều lạ.
Người ta có thể nghi ngờ điều đó, song qua nhiều đời sự kiện đã được sử sách chép lại, hẳn là có thực. Quả chẳng một ai dám đến gần Bà để mà đo vú nên cái con số ba thước chỉ là hình tượng về một chiều dài không mấy bình thường. Còn nhớ, vào thời Pháp thuộc, ông Hoàng Cao Khải có làm bài thơ ca ngợi Bà Triệu, bài thơ tầm thường chỉ có cặp trạng là nghe tạm được:
Lừng lẫy non sông, ba thước vú
Xông pha tên trận một đầu voi.



Người đồng thời là cụ Phan Điện - một nho sĩ nổi tiếng ở Hà Tĩnh - đi đâu cũng chỉ trích sự kém cỏi của bài thơ này nên người con của ông Hoàng Cao Khải là Hoàng Mạnh Trí - bấy giờ là tri huyện Đức Thọ, mời cụ Phan Điện đến công đường và bảo: “Sao ông đi đâu cũng chê bài thơ của cha tôi là dở. Ông hãy làm một bài khác xem sao. Nếu không hơn của cha tôi thì tôi sẽ giữ ông lại nơi này”.
Ông Phan Điện không cần suy nghĩ (hoặc ông đã từng suy nghĩ lâu rồi) cầm bút viết liền tám câu Đường luật sau đây:
Phải đánh vì chưng giặc đến nhà
Phất cờ, vắt vú, cưỡi voi ra
Sợ non sông Lạc vào tay chú
Cho tướng quân Ngô biết mặt bà
Bắc Hán ngàn năm chưa có một
Tây Hồ hai chị nữa là ba
Còn trời, còn đất còn non nước
Còn lắm anh hùng ở xứ ta.
Bài thơ quá hay, chứa đầy hào khí xuyên suốt từ trên xuống dưới theo như các cụ thường bảo nhất khí quán hạ khiến ông tri huyện lặng thinh để cho cụ Phan đi thẳng về nhà.
Như thế, nói theo ngôn ngữ ngày nay, nhắc đến rau cải người ta quen dùng cái tiếng siêu sạch, bàn về ca sĩ người ta quen gọi bằng tiếng siêu sao, chúng ta có thể tự hào rằng dân tộc mình từng có siêu vú.
Theo: Vũ Hạnh

Ca Dao Trào Phúng

Ca Dao Trào Phúng

Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và ca dao trào phúng là ca dao nói về những nét trào phúng, hài hước, bông đùa, hóm hinh, dí dỏm trong kho tàng văn chương bình dân của tiếng Việt ta.
Ngày xưa, cha mẹ chồng rất hà khắc với nàng dâu, nhất là mẹ chồng cho nên các cô gái ngày xưa rất “ớn” về làm dâu nhà chồng:
Gió đưa bụi chuối tùm lum,
Mẹ anh như hùm ai dám làm dâu.


Hay:

Bà con có biết hay không?
Bố chồng là lông chim phượng.
Mẹ chồng là tượng mới tô,
Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi.
Còn các nàng dâu ngày nay đã có các “Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng sau lưng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì thế các nàng thường ngâm nga câu:
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
Đó là mẹ chồng dữ, còn cha chồng mà dữ thì:
Ai ơi chồng dữ thì rầu,
Bố chồng mà dữ mổ trâu ăn mừng.
Trong tình trường, có nhiều cô gái ỷ mình đẹp, có nhan sắc hay con nhà giảu nên làm cao:
Anh về chẻ lạt bó tro,
Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.
Hoặc:
Duyên em đáng giá ngàn vàng,
Anh về bán cả họ hàng cưới em.
Nhưng chàng trai đáp:
Anh về bán cái hột xoàn,
Bán thêm cây vàng dư sức cưới em.
Hay:
Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn lính canh.
Chàng trai đáp lại:
Thân anh như cái chày vồ,
Bỏ lăn, bỏ lốc chờ ngày dộng chuông.
Đối với những cặp vợ chồng mà tuổi tác hay kích thước chênh lệch thì ca dao trào phúng có câu:
Có phúc lấy phải vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh.
Vô phúc lấy phải trẻ ranh (bồ nhí),
Nó ăn, nó phá tan tành nó đi.
Hay:
Ai đời chồng thấp, vợ cao,
Rờ vú không tới lấy sào mà quơ.
Còn về những phụ nữ nhan sắc tàn phai, ca dao ta có câu châm biếm:
Mồ cha con bướm khôn ngoan,
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.
Hay:
Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Hoặc:
Còn duyên kẻ đón người đưa.
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
Và:
Còn duyên kẻ đợi người chờ,
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.
Trong tình trường, những kẻ nhiều kiên nhẫn, “lì” thì đạt được thành công:
Chuông già đồng điếu chuông kêu,
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.
Nhưng đối với những phụ nữ nhẹ dạ thường nghe những lời nỉ non ngon ngọt ca dao ta khuyên:
Chớ nghe quân tử nỉ non,
Để rồi có lúc ẵm con một mình.
Hay:
Gá duyên với bạn hôm rằm,
Bữa nay bạn bỏ tôi nằm phòng không.
Còn những phụ nữ có chồng mê vợ bé, bỏ bê gia đình thì than:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.
Bởi thế cho nên ca dao khuyên những người đàn ông nhiều vợ rằng:
Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai nhiều vợ phải thương cho đồng.
Đàn ông là những người tham lam cho nên ca dao có câu:
Sông bao nhiêu nước cho vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
Đàn ông tham lam, năm, bảy trái tim:
Đàn ông năm, bảy trái tim,
Trái ở cùng vợ, trái toan cùng người.
Hay:
Hai cô đứng lại cho đồng,
Để anh đứng giữa làm chồng hai cô.
Hoặc:
Lựu, lê anh cũng muốn trồng,
Hai em anh cũng thương đồng cả hai.
Và:
Cây lê, cây lựu, cây đào,
Ba cây anh cũng muốn rào cả ba.
Ca dao ta cũng trách những người ăn ở hai lòng:
Trách ai ăn ở hai lòng,
Đang chơi với phượng, thấy rồng bay theo.
Ở đời có nhiều người chủ quan, tự phụ:
Gió thu thổi ngọn phù dung,
Dạ nàng dù sắt anh nung cũng mềm.
Trong tình trường, có người tán gái hơi ngộ nghĩnh:
Gái chưa chồng hay đi chợ,
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
Khi mới quen nhau:
Nàng về ta chẳng cho về,
Níu áo nàng lại ta đề bài thơ

Hay:
Nàng về ta chẳng cho về,
Nắm áo nàng lại ta đề số phone.
Khi yêu nhau, ta nương tựa nhau, ta dìu dắt nhau:
Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.
Khi yêu nhau, ta thương nhớ nhau, muốn gần gũi bên nhau nên nàng ước:
Ước gì em hóa ra dơi,
Bay đi bay lại đến nơi anh nằm.
Hay:
Thương anh không tính bạc tiền,
Hôn nhau một cái chết liền cũng vui.
Hoặc:
Anh về em cũng về theo,
Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà.
Tục ngữ có câu “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một” cho nên:
Tuổi nàng đã chẵn hai mươi,
Tuổi anh hăm mốt tốt tươi quá chừng.
“Cua” em để dành:
Cam sành lột vỏ còn chua,
Thấy em còn bé, anh “cua” để dành.
Hay:
Cam đường bóc vỏ còn the,
Thấy em còn bé anh “ve” để dành.
Và:
Cầm chài mà vãi bụi tre,
Con gái mười bảy đi “ve” ông già.
Trong tình trường, khi yêu nhau cưới liền để lâu thì mất cho nên ca dao khuyên:
Ai về nhắn với ông câu,
Cá ăn thời giật, để lâu mất mồi.
Đối với những anh chàng dại gái, ca dao trào phúng châm biếm:
Tiếc công khổ cực nuôi cu,
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu đi,
Hay:
Công anh xúc tép nuôi lươn,
Nuôi cho nó lớn, nó trườn nó đi.
Hoặc:
Công anh chăn nghé đã lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
Cá ăn không giật để lâu mất mồi rồi than trời, trách đất:
Trách trời sao vội mưa giông,
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
Còn đối với những anh chàng thất tình, ca dao trào phúng bông đùa:
Rồi đây có kẻ thất tình,
Dựa mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu.

Hay:
Chiều chiều có kẻ thất tình,
Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.
Hoặc:
Thất tình nước mắt như mưa,
Thấu trời, thấu đất nhưng chưa thấu lòng.
Và:
Châu sa nước mắt ròng ròng,
Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chăng?
Trai tơ đòi vợ:
Chuối non chuối ép chát ngầm,
Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm.
Khóc rồi mẹ lại đánh thêm,
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày.
Còn những chàng trai tơ mà lấy gái nạ dòng, ca dao trào phúng chế giễu:
Trai tơ thì lấy gái tơ,
Đi đâu lật đật mà quơ nạ dòng.
Không đưa hối lộ đếch “ừ”:
Chắp tay lạy cụ tỉnh yêu,
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.
Cụ nhìn trợn mắt, cau mày,
Không đưa hối lộ thì đây đếch “ừ”.
Đi đâu mà chẳng lấy chồng:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng đất hỡi, trời ơi,
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
Hay:
Đi chùa lạy Phật cầu chồng,
Hộ Pháp liền bảo đàn ông hết rồi.
Vì không chồng cho nên buồn rầu:
Buồn rầu, buồn rĩ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.
Hết buồn rầu lại đến buồn tình:
Buồn tinh nằm ngửa chình inh,
Không ai nằm úp lên minh cho vui.
Và:
Buồn tình hai đứa buồn tình,
Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang.
Con gái mà chơi với con trai:
Con gái chơi với con trai,
Rồi sau cái vú bằng hai trái dừa.
Má ơi đừng gả con gần:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu, vượn hú biết đâu mà lần.
Má ơi đừng gả con gần,
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.
Chọn bạn mà chơi:
Chọn xoài đừng chọn xoài chua,
Chọn bạn đừng để bạn “cua” bồ mình.
Sài Gòn, Nam Vang đi dễ, khó về:
Sài Gòn đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Hoặc:
Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Đường cong cong, quèo quẹo:
Đường Sài Gòn cong cong, quèo quẹo,
Gái Sài Gòn không ghẹo mà theo.
Hay:
Đường lục tỉnh cong cong, quèo quẹo,
Gái lục tỉnh không ghẹo mà theo.
Nhiều gái ế chồng:
Bến Tre nhiều gái ế chồng,
Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi!
Ca dao trào phúng của ta cũng không quên bông đùa, chiâm biếm những phụ nữ có tánh lẳng lơ, hoa nguyệt:
Anh đánh thì em chịu đòn,
Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
Hay:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.
Hoặc:
Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.
Chờ ông láng giềng:
Đêm qua để cửa chờ chồng,
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.
Và:
Cái giường mà biết nói năng,
Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.

Giữa chồng và trai:
Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Hoặc:
Đêm nằm ôm gối thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
Đàn bà Bình Định nổi tiếng giỏi võ nghệ, giỏi côn quyền nên ca dao có câu:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền.
Nhưng:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà Bình Định ra oai đánh chồng.
Ai mua cây si:
Ai mua tôi bán cây si,
Si tôi tốt giống, cành chi chít cành.
Hễ mà gặp được đất lành,
Là si phát triển trở thành “siđa”.
Ca dao trào phúng cũng còn châm biếm những anh chàng sở khanh:
Yêu em mấy núi cũng trèo,
Khi em có chửa mấy đèo cũng dông
Nếu mà anh phải lấy nàng:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh phải lấy nàng,
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Nhưng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy thằng cu ra đời.
Thu đi để lại lá vàng:
Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu tiềp nối mùa thu,
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời.
Qua đình ngả nón:
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Nhưng:
Qua đình ngả nón trông đình
Nhìn anh ăn mặc thùng thình em chê.
Đường về đêm tối:
Đường về đêm tối canh thâu,
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.
Giỡn chơi chút xíu:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
Trách người quân tử:
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Hay:
Trách người quân tử gian manh,
Chơi hoa rồi lại hái cành kế bên.
Chồng đòi “tòm tem”:
Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn la, con khóc, chồng đòi “tòm tem”.
Bây giờ lửa đã cháy rồi,
Lợn no, con nín “tòm tem” thì tòm.
Chính chuyên:
Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
Hay:
Chính chuyên lấy được chín chồng,
Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.
Ba chồng để ngọn sông Đào,
Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng.
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”:
Thuyền theo lái, gái theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
Cưới nàng được chăng:
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm, vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.
Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
Làm trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?
Trời ở bất công:
Trời sao trời ở bất công,
Người ba bốn vợ, người không vợ nào!
Ba bà tìm nhà bà tư:
Bà cả, bà bé, bà ba,
Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư.


“Một vợ nằm giường Lèo,

hai vợ nằm chèo queo,

ba vợ ra chuồng heo mà nằm.
Thế còn 5 vợ thì sao?

 Xin thưa:

Đêm khuya năm vợ ngồi hầu,
Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi.
Vợ hai trải chiếu chàng ngồi,
Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong.
Vợ tư sửa soạn giăng mùng,
Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa.
Chè thưng, cháo đậu bưng ra,
Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân.
Đám cưới linh đình:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Hà Nội, Thái Bình sửa đàng rước dâu.
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau,
Nghệ An thì phải thui trâu, mổ bò.
Phú Thọ quạt nước hỏa lò,
Hải Dương rọc lá làm giò, gói nem.
Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền,
Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi.
Kiên Giang gánh đá nung vôi,
Thừa Thiên, Đà Nẳng thổi xôi, nấu chè.
Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe,
Sài Gòn, Gia Định chẻ tre bắc cầu.
Anh mời khắp nước chư hầu,
Nước Tây, nước Tàu anh gởi thư sang.
Nam Tào, Bắc Đẩu dọn đàng,
Thiên Lôi, La Sát hai hàng, hai bên.
Lê ThươngRichmond - Virginia

Tình Dục trong Ca Dao

Tình Dục trong Ca Dao
 
Tình Dục là một khía cạnh văn hóa, một sắc thái rất đặc trưng, một vấn đề rất đời thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người. Nghiên cứu sâu về Tình Dục thì không thể bỏ qua khía cạnh văn hóa này, vì ở đó nó thể hiện được quan niệm của mỗi dân tộc, mổi sắc dân thậm chí là từng vùng nhỏ địa lý, tình dục dược nói đến trong các tác phẫn văn học nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Phan Trần, Hoa Tiên... và cũng là một đề tài vô cùng phong phú trong ca dao. Ca dao VN là một loại văn chương bình dân có một sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán xã hội của đại đa số dân chúng, nó được thể hiện qua lối nói rất giản dị, thẳng thắng, trung thực không màu mè, chải chuốt,là một kho tàng bất tận để khai thác trong nhiều lãnh vực khác. Khảo sát về mặt tình dục trong ca dao VN mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người nông dân, mới thấy được sự mô tả tâm tư, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự khao khát và nỗi đam mê về thân xác là rất thật, rất đời thường. Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chữ, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà
" đạo đức " lên án là dâm ô, tục tỉu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông ngườị Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tạị



Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào!

Lại có câu:

Văn chương chữ nghỉa bề bề
Thần L.. ám ảnh mà mê mẫn đời

Hóa ra Thần L.. chi phối cả cuộc sống, bởi vậy không lạ khi người Champa đem hai "cái ấy" Yoni và Linga đễ thờ phươ.ng. Ngày xưa người Việt cũng như người Tàu đều có khuynh hướng sùng bái tính dục bao gồm sự sùng bái cơ quan sinh dục, sùng bái chuyện sinh nở, sùng bái vấn đề tính giaọ Cho nên trong ca dao người ta nói nhiều đến chuyện nàỵ Ông Đổng, bà Banh có thể xem là biểu tượng về tình dục trong ca dao

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôị
Đến chừng mười chín đôi mươị
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

Hết đồng anh lại pha chì
Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai
Sinh ra được thằng bé con trai
Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.

Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng

Thôi thôi, tôi van câu rằng đừng
Tôi lạy cậu rằng đừng
Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa
Tôi về gọi chị tôi ra
Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng

Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi
Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ.

Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu
Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!

Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh
Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha!

Chú ý: Tổ cha: tiếng địa phương có nghĩa là rất lớn

Em đừng chê anh nhỏ mà lầm
Hòn đá đập nằm dưới,
hòn đá cầm nằm trên
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong
(Chụp bụp nghĩa là to mà ngắn)

Chẳng thà nó nhỏ mà cong
Còn hơn tổ bố nửa trong nửa ngoài

Cồng cộc bắt cá bầu eo
Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi

Câu đố:
C.. ba chia đút vô l.. ngoáy
Chãy máu ra lè lưởi liếm liền

Câu đố:
Ngất nga ngất ngưỡng tựa cần câu
Tay chân không có miệng trên đầu

Câu đố:
Đi nhai, đứng ngậm ngồi cười.

L.. này L.. chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ... dai đau L...

C .. to lo chi đói
Cơm nhà L..vợ
Sờ L..béo, đéo l... gầy
Vú nẫy L.. sưng
Ví phấn với vôi
Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn

Bà ba đi chợ đường quai
Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..

Bà ba đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm

Trên trời có ông sao Rua
L.. em tua tủa có thua chi nào.

Lông tơ lún phún mép L..
Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra
Cây trời có cái chỉa ba
Thương em thì hãy đem tra nó vào
Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà tra lưỡi cày

Trời mưa trời gió đùng đùng
Cả bầy C.. lọ mang tơi đi tìm

Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..

Ví ví von von
Anh cho một cái, cỏng con về nhà

Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con
Trong nhà đã có đồ chơi
Song le còn muốn của người thêm xinh

Kim mà đâm thịt thì đau
Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời

C.. vạy thì ngoáy L.. già
Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già

C.. vạy thì ngoáy l.. già
Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn

Gió nam non thổi lòn hang chuột
Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em

Nhiều phân tốt lúa
Nhiều lụa tốt L..

L... tốt vì lụa Lúa tốt vì phân.

Vú em như quả mướp hương
Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau

Hơn nhau tấm áo manh quần
Cởi ra bóc trần ai cũng như ai

Lở khi ăn miếng trầu xanh
Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm

L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô
Chóc ngóc như đóc mồ côi

Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
mẹ giận mẹ phát ngang hông:
"Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm"!


Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất
dạy Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)

Đêm bảy ngày ba vô ra không kể
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia.

Dịch:
Đêm tối uống vài ba chén rượu
Sáng ra lót dạ mấy chung trà
Một lần một tháng e vừa đủ
Chắc chắn lương y khỏi tới nhà

Bảy lượt mổi ngày đòi má nó
Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???

Cha chết không lo, lo trâu méo L...

Áo xông hơi của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông

Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la

Chú ý: Ngày xưa cái giường của người đàn bà nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiu lỏng, đụng vào đó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã một lần chợt thức giấc vì nghe tiếng chuột kêu, hoặc nghe tiếng giường kêu

Mẹ ơi con muốn lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con

Cô Ba, cô Bốn lấy chồng
Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng

Xót lòng mẹ góa con côi
Kiến ăn lần hồị L.. lớn bằng mo

Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm

Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ

Ngó lên gò mả, Ngó xuống gò găng
Gặp chị bẻ măng, Trật quần bắt kiến
Thấy tôi hay liếng, Chị bảo bắt giùm
Tôi bắt một đổi, Thấy cái đùm đen thui!

Gió nam non thổi lòn hang cóc
Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang

Gió nam tốc dải yếm đào
Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương

Anh về sương gió lạnh lùng
Ở đây chung gối chung mùng với em

Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng

Đêm đông trời lạnh như đồng
Mượn chi thì cho mượn, mượn chồng thì không
Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng

Thương em đút C. qua rào
Không thương rút lại gai quào rách dạ
Thương em đút C. qua rào
Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt dạ

Trăng lên đỉnh núi mu rùa
Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai

Vú em như cái chủm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền

Vú em đang giá một tiền
Cho anh bóp cái anh đền năm quan

Nứng L ... mà cạ cây vông
Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l...

Vân Tiên ngồi dựa gốc môn
Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga
Nguyện Nga biết ý không la
Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần

Mười ba mười bốn lum săng
Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L.
Mười bảy mười tám thẹn thùng
Hai mươi mười chín như khùng như điên

Ra đường con mắt ngó nghiêng
Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng

Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ L ...cái phạch chào anh hùng đến đây!

Dậm chân xuống đất kêu bon
Vọc C. cho cứng chào con nứng L.
Bà Đội cho chí bà Cai
Bà nào hay đố chữ cũng váy ngoài L.. trong

Nứng l... đỏ mặt Nứng C... đỏ lổ tai

Sướng lỗ khu su con mắt (lỗ khu tiếng Huế là hậu môn)

Cực chi da diếc diếc da
Áo em hai vạc trải ra anh nằm

Nứng C. máu Cái L. què

Trăng lên khuất bóng cây dừa
Làm thân con gái phải chừa đi đêm!

Thương em không dám vô nhà
Đi qua đi lại hỏi: "gà bán không?"

Em là con gái đêm hôm
Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!

Chú ý: Nam, nồm: gió nam, gió nồm, đây ý nói tiếng đồn xấu, tiếng chì tiếng bấc.

Thương nhau nào ngại sang giàu
Tối lửa tắt đèn nhà ngói như nhà tranh

Chị kia lớn mổng cao mu
Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu
Cu tôi vừa mới đâm lông
Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm

Cu tui ăn đậu ăn mè
Ăn chi của chị mà chị đè cu tui
Tui chưa trách chị mà chị lại trách tui
Con chị đi lên đi xuống nên con tui mang bầu

Con chị mang chín tháng không rầu
Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm

Ôi O bán cồm hai lu
Đi mô tui gởi con cu về cùng
Cu tui tui ấp tui bồng
Chớ bỏ vào lồng mà ốm cu tui
(Tiếng Huế goi O là cô )

Thấy đua, thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách cũng xoi lông L..

Tham giàu lấy phải thằng Ngô
Đêm nằm như thể cành khô đâm vào

Tiếc thay con gái mười ba
Liều thân mà lấy ông già tám mươi
Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng
Tiếc thay con người ấy thế ma đi ôm lưng cái lão già

Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu
Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông

Hởi cô mặc yếm hoa tầm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai
Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai
Chồng cô về hỏi: Con ai thế này ?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho

Hởi cô cô yếm thắm bùa đeo
Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người

Hỡi nàng má đỏ hồng hồng
Cổ cao, miệng rộng, lông L. vắt vai

Hát cho chó cắn, bò lồng
Hát cho con gái bỏ chồng mà theo

Rung rinh nước chãy trên đèo
Bà già lật đật mua heo cưới chồng

Ở đây có đứa lấy trai
Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa

Ông già ông đội nón cời
Ông ve con nít ông trời đánh ông
Ông ơi tôi chẳng lấy đâu
Ông đừng cạo mặt nhỗ râu tốn tiền

Tiện đây mận hỏi thăm đào
Vườn hồng đã có kẻ vào hay chưả
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

Khứ nhật ngã đề xuân nhất tự
Hà nhân lai đáo phá thành thung
Lang quân bất thức lang quân hận
Tọa tất xuân đề ngọa tất thung

Ngày ấy ta đề "xuân" một chữ
Cớ sao ai lại phá thành "thung"
Bởi chàng không rõ nên chàng giận
Ngồi ắt là "xuân", nằm ắt "thung"

Ngó vô đám bắp khô bao
Muốn vô mà bẻ người ta rào tứ tung
Một mai trống thủng còn vành
Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa

Đau bụng, lấy bụng mà chườm
Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng

Em ơi! Trống lũng khó hàn
Dây dùng khó đứt,
người khôn khó tìm

Nước chãy hòn đá lăn cù
Con chị đã vậy thì bèn con em!

Rộng đồng thì gió thổi luôn
Khi vui cô chị khi buồn cô em

Mít ngon anh đánh cả xơ
Chị đẹp em đẹp anh sờ cả đôi

Gió đưa bụi chuối sau hè
Đã ve con chị lại tò vè con em!

Trông chồng mà chẳng thấy chồng
Để em vắng lạnh phòng không một mình

Buồn tình cha chả buồn tình
Biết ai lẻ bạn cho mình kết đôi

Quét nhà long mốt long hai
Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà

Chú ý: long mốt long hai: làm dối, quét một chổi sót một chổị Đây ý nói làm thì vụng về, chỉ giỏi đường trai gáị

Chàng vông mà đậm lúa lép
Rựa lụt mà cắt dép da
Trai tơ mà lấy vợ già
Nhai cơm mà sú thưa:"bà nuốt đi"!

Chú ý: chàng vông: chàng bằng gỗ vông, nhe..

Mèo hoang thì chó cũng hoang
Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn

Chú ý: nên hiểu theo nghĩa bóng (gian phu dâm phụ)

Cầm chài mà vải bụi tre
Con gái mười bảy đi ve ông già!

Một vợ mà xử không xong
Còn đòi hai vợ cho cong ... cái xương suờn
Từ nay sống cũng bằng không
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha

Cho dù có sống đến già
Cho dù béo tốt cũng là phí toi
Bây giờ pháo đả tịt ngòi
Gia tài còn lại ... một vòi nước trong

Củ lang nấu lộn củ mì
Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh

Xứ tôi có núi "Xách Quần"
Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh
Yêu anh thì giữ lấy anh
Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi

Xách quần chạy ngược chạy xuôi
Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ ...

Con gái chơi với con trai
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa

Có chồng thì mặc có chồng
Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!

Một hai họ nói rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người

mẹ ơi mẹ bạc như gà
Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con

Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn không giật để lâu mất mồi

Cam đường bóc vỏ còn the
Thấy em còn nhỏ anh ve để giành

Chú ý: cam đường: loại cam dại trái nhỏ, thường mọc dưới chân núi, mùi thơm như mùi cam, lá giống lá chanh, cây có gai như gai quít, trái chín ăn rất ngọt, trái xanh thì đắng và hơi chua



Thằn lằn tặc lưỡi mái tranh
Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau
Bông thơm nở cạnh bìa rừng
Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!

Cô tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông

Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh
Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta
Chim chuyền bụi ớt líu lo
Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền

Liệu bề dát được thì đau
Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào

Trời sinh cái cửa ra vào Sao em lại khoe sắc tài
Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!

Chú ý: đào (đào bới): chưởi rủa

Em ơi anh bịnh nhức dầu
Hay đi đái rát lại đau ngọc hành
Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh
Thì em đi lấy cho anh một liều

Sáng trăng tôi được chồng ai
Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi
Ba quan tiền điếu bó mo
Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng

Chú ý: Đại ý: một gã chuyên "hai hoa" bị gái ngoan bắt được trói lại rồi đánh tiếng. Quan tiền điếu bó mo: tiền đúc bằng đồng điếu, tức loại đồng tiền thau. 1 quan = 10 tiền; 1 tiền = 60 đồng. Đem những đồng tiền bó vào mo cau cho dễ mang.

Những mạng thích chí ngao du
Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào
Nhất lê, nhì lựu, ba đào
Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông.
Thương cha nhớ mẹ có hồi
Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi
Ước gì dãi yếm em dài
Để em buột lấy những hai anh chàng

Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì theo sau

Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi
Bo bo giử lấy của trời làm chi

Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng

Trai tơ lấy gái nạ dòng
Cầm bằng uống máu làng trong làng ngoài

Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chửa có chồng, còn đợi chờ ai

Buồng không lần lữa hôm mai
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương

Cô kia cắt cỏ bên sông
Cái váy thì cộc, cái lông thì dài
Thuyền chài nó trả quan hai
Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân

Cổ tay em trắng lại vừa tròn
Để cho ai gối đến mòn một bên

Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng:
Trai thanh lấy gái có chồng được không?

Chơi cho thủng trống long bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng

Tính quen chừa chẳng được đâu
Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng

Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian thường tình

Em mất chồng em chẳng có lo
Anh đây mất vợ nằm co một mình

Em đây là gái năm con
Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân

Có chồng càng dể chơi ngang
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai

Hai tay cầm lấy quả hồng
Quả chát phần chồng, quả chín phần trai

Vú sửa mà bửa làm đôi
Nữa cho con bú, nữa cho trai đem về

Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều

Mày ăn cơm hay ăn khoai
Một bài thơ ấy ngâm hai ba lần

Chử tình đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng củ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người

Đánh tôi thì tôi chịu đau
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu

Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành

Cau khô mà bỏ hộp đồng
Mặt mi không xứng làm chồng tau mô

Chưa quen đi lại cho quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không gài

Em đang bắc nước sôi sôi
Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung

Gặp nhau từ bến Đại Đồng
Quên nhau hay đã có chồng mà quên

Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh
Đêm nằm lưng chẳng bén giường
Mong cho mau sáng ra đường gặp anh

Thương anh chẳng dám nói ra
Chiều chiều đi dạo vườn hoa khóc ràn
Đêm nằm khô héo lá gan
Mong cho mau sáng ra đàng gặp anh

Ngó lên trăng chúc sao nghiêng
Vui chung với bạn sầu riêng một mình

Ngồi buồn nghĩ càng thấm
Hột cơm tấm cắn làm hai
Rau lang đỡ bữa liễu với mai đừng lìa
Em với anh như khóa với chìa
Đừng để cho ống liệt, khóa với chìa lìa nhau

Chú ý: bụng ống khóa bị hư

Bóng trăng ngã lộn bóng tre
Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề

Vườn đào, vườn lựu vườn lê
Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài

Nghĩ mình lại giận lấy mình
Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy

Chú ý: Đậu sống: Ao chưa may đường sống lưng

Đèn hết dầu đèn tắt
Nhang hết vị hết thơm
Anh đừng lên xuống đêm hôm
Để thế gian đàm tiếu tiếng bấc tiếng nồm tội em

Tay cầm cọng lạc bẻ cò
Lòng thương da diết, giả đò làm lơ
Thương sao thương dại thương khờ
Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than

Hai tay vin lầy đòn rồng
Tội trời con chịu theo chồng con cứ theo
Ra đi cha mắng mẹ rầy
Không đi thì sợ ngoài này anh trông

Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm cô đó có chồng hay chưả
Có chồng năm ngoái ngày xưa
Năm nay chồng để như chưa có chồng

Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười
Bạn cười thì mặc bạn cười
Tháng năm đi cưới tháng muời có con

Có con nên phải thua người
Mắc cho con bú, mắc cười với con.

Đang khi lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Lợn no con nín, tòm tem thì tòm

* Tục ngữ phong dao (trích "Tục Ngữ Phong Dao" của Nguyễn văn Ngọc) Ca dao




Ba bà đi chợ đường quai,
Vừa đi, vừa tỉa lá khoai bưng L.
Ba bà đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L. bán trăm.

Nước nóng đổ lọ bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại dở khôn,
Say mê cái L. bỏ mẹ con tôị

Câu đố:
Ba bà mà giang chân ra
Một ông đứng giữa mà tra C. vàọ
(ba ông đầu rau và nồi cơm)

Ba ông ngồi ghế
Một ông cậy thế,
Một ông cậy thần
Một ông tần ngần đút C. vào bếp.
(Bể thổi lửa)

Bì bà, bí bạch chân cò
Bí ba bí bách, nằm co giữa giường
Đoạn rồi sờ vú sờ sườn
Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôị
(Bánh dầy)

Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau
Cắn giữa phau câu, nghiến đi nghiến lại.
(cối xay)

Bốn chân mà lại có đuôi
Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng.
(con chuột)

Cái gì vừa quả vừa hoa,
Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
(hai "quả đào tiên").

Cái hoa tim tím, cái nhị điều đều,
Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít.
(cái máy khâu)

Canh một thì trải chiếu ra,
Canh hai bóp vú, canh ba sờ l.
Canh tư thì lắc om sòm
Canh năm cuộn chiếu ẳm con ra về.
(Người kéo vó)

Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn,
Hai cái lông l. cái dài cái ngắn.
(xỏ kim)

Chưa chết đã đem đi chôn
Chưa ra đầu ngõ, vạch lồn xem ghe.
(Người cầm bó rơm xin lửa)

Chưa hỏi đã cưới liền tay
Bức chí ta nên phải lấy mày
Đêm nằm tơ tưởng sờ cùng mó
Mó đến mày, lại sướng đến ta.
(cái quạt)

Gầy gò có bốn cái xương
Cái giải thòng thơng vướng anh c. dàị
(Quả nhãn)

Già thì đặc bí bì bì
Con gái đương thì rỗng toách toành toanh.
(cau lúc già và lúc là cau hoa)

Lồm xồm hai mép những lông
Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra
Năm thì mười họa đàn bà mới chui.
(Cái áo tơi)

Già ăn với cà kheo
Lại thêm c. lõ, lại đèo nắm lông.
(Miếng giầu thuốc)

L. già da dính tận xương
Váy xanh mỏng mảnh lại thương c. dài.
(Cối giã gạo)

Lù lù như mu l. chị
Lị xị như đầu c. tôi
Ngày n_ đi khắp mọi nơi
Đến đêm lại chui vao mu l. chi..
(Con rùa)

Lưng tròn đít lại bảnh bao
Mân mân mó mó đút n_ vào
Thủy hỏa âm dương sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm saọ
(điếu thuốc lào)

Mình bằng quả chuối tiêu
L. bằng vỏ trấu, lổ bằng niêụ
(Con chuột)

Mình tròn, da lại trắng tinh
Hể nóng đến mình thì ưỡn vú ra
Ăn phải thịt gà lại tịt vú đị
(bánh đa sát-kê)

Mình tròn trùng trục, đầu toét toè loe
Đút vào con gái, cô con gái nghe,
Đút vào bà lão, bà lão lắc.
(đôi hoa tai)

Người thì cao lớn trượng phu
Đóng mười lần khố, trật cu ra ngoàị
(cây chuối có hoa)

Rành rành ba góc, giữa con cóc ngồi
Hai bên thiên lôi, hai bên địa võng.
(hai cái vú)

Rau âm phủ nấu với mủ l. tiên
Ngựa cửa quyền nấu với ả l. tranh.
(Măng nấu với rươi, cua nấu với khế)

Thoạt vào thì vén váy lên
Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù
(dệt cửi)

Trên lông dưới lông,
tối lồng làm một
(con mắt)

Vừa bằng cổ tay đâm n_ vô l.
Gặp ông quan ôn, bỏ l. mà chạỵ
(Con chuột và con mèo)

Tục ngữ phong dao

Anh em bất nghĩa chi tồn
Anh đánh miếng l. em đánh miếng gh.
Anh em bất nghĩa chi khoèo
Anh thì đ. mèo, em lại cầm đuôị

Bủng người tươi đ.
Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông l. rụng sa.ch.

Bà cốt đánh trống long tong
Nhảy lên nhãy xuống con ong đốt l.

Bà đội cho chí bà cai
Bà nào hay đố chữ cũng l. ngoài, váy trong.

C. ai vừa mũi người ấy.

Của l., l. đòi, của c., c. quên.

Có l. thì giữ,
C. ông hay chữ đi đêm.

Con mày con nuôi chẳng bằng con c. làm ra

Chơi no bỏ gio vào đ.
Chồng chết còn chửa hết tang
L. đà ngấm ngáp như mang cá mè.

Đánh đĩ gặp năm toi c.
Đĩ có tông, ai giồng nên đĩ
Đủn đỡn như đĩ được cái đanh.
Đẻ con khôn mát l. rời rợi
Đẻ con dại thảm hại cái l.

Đi sau ăn rau bà đẻ,
Ăn giẻ chùi trôn, ăn l. chấm muốị

Đĩ xơ, đĩ xác, đĩ xạc, đĩ xờ
Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống aọ

Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn,
l. Cổ Am, c. Hành Thiện.

Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ còn thiếu một ông trời không chim.

Giữ được đằng trôn, đằng l. quạ mổ.
Trai thấy l. lạ như quạ thấy gà con.

Già thì già tóc, già tai,
Già răng già lợi, đồ chơi không già.

L. rằng l. chẳng sợ ai,
Sợ thằng say rượu, đ. dai đau l.

Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo
l. không cạp, l. méo làm bạ

Mưu con đĩ, trí học trò.
May hơn khôn, lớn l. hơn đẹp.
Nuôi con chẳng biết tính con
Hể vú gai gạo thì l. chớp đông.

Nứng c. thì vặc đến nhà
L. còn đau mắt không ra đến ngoàị

No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi
Quần áo tả tơi mọi nơi chẳng dật.

Nằm đất hàng hương còn hơn nằm hàng cá
L. cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh chàng hương.

Nhăn nhở như l. lở sơn.
Quang không lành, mắng giành không trơn
L. không lành, mắng quanh hàng xóm.
Rền rĩ như đĩ phải tim lạ

Ra đường ai nói thế nào
Về nhà lấy thớt lấy dao băm l.
Thấy đua thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l.

Trân trân như l. trần không đáỵ
Uống rượu ngồi dai, dái mài xuống đất.

Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần l. ám ảnh cũng mê mẫn nguờị
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi, l. lớn bằng mo.

[Sưu tầm]